Trường ĐH Kinh tế và Quản trị Kinh Doanh - ĐH Thái Nguyên

LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC XÃ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ Ở VIỆT NAM

 30/01/2021  778

ThS. Bế Hùng Trường

Viện Nghiên cứu Kinh tế & PTNNL, Trường ĐH Kinh tế & QTKD, ĐHTN

 

1          Khái niệm HTX của Việt Nam

1.1       Định nghĩa HTX

Ở Việt Nam định nghĩa chính thức về HTX được thể hiện qua Luật HTX 2003 và Luật HTX 2012. Nội dung cụ thể của các định nghĩa này như sau.

Theo Điều 1, Luật HTX 2003 (Luật số 18/2003/QH11 do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 26/11/2003 [1]) thì định nghĩa HTX như sau:  

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.

Theo các Khoản 1, 2, 3 Điều 1 của Luật HTX 2012 (Luật số 23/2012/QH13 do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 20/11/2012 [2]) thì HTX, Liên hiệp HTX được định nghĩa như sau:

 

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã.

Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp hợp tác xã.

Khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật doanh nghiệp.

1.2       Sự khác nhau giữa HTX và doanh nghiệp

Theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP [3] thì sự khác nhau giữa HTX và doanh nghiệp thông thường như sau.

Về mặt bản chất, HTX khác với các hình thức tổ chức kinh tế khác (doanh nghiệp) ở hai điểm chính: (i) HTX là hiệp hội các cá nhân đồng ý trở thành những người đồng sở hữu, người đưa ra các quyết định dân chủ và người khai thác doanh nghiệp chung; và (ii) mục tiêu cơ bản của HTX là đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng về mặt kinh tế, văn hóa và xã hội của xã viên. Hay nói cách khác, hợp tác xã là tổ chức kinh tế - xã hội khác với các loại hình doanh nghiệp về mục tiêu thành lập (HTX đáp ứng các nhu cầu về kinh tế, văn hóa, xã hội của xã viên) và tổ chức hoạt động (HTX có tính dân chủ, tính tương trợ cao).

Theo mục tiêu hoạt động, các HTX có thể được chia thành hai nhóm: (i) HTX của những người sử dụng (hàng hóa/dịch vụ) sở hữu HTX, được thành lập bởi các thành viên có nhu cầu chung về hàng hóa hay dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội của các thành viên. Các HTX này có thể tồn tại dưới hình thức HTX marketing nông nghiệp hoặc HTX vật tư nông nghiệp; và (ii) HTX của những người lao động sở hữu HTX được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu về việc làm của các xã viên, những người thất nghiệp hay không có việc làm. 

1.3       Đặc trưng của HTX

Theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP [3] thì HTX có các đặc trưng có bản sau đây.

Thứ nhất, HTX là tổ chức kinh tế - xã hội liên kết các cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân, được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu chung của xã viên theo nguyên tắc tương trợ.

HTX là nơi tập hợp và liên kết các cá nhân qua đó họ (các xã viên) giúp đỡ lẫn nhau và hợp tác với nhau nhằm thực hiện các nhu cầu chung của họ về hàng hóa / dịch vụ / văn hóa / xã hội. Lý do cơ bản là các nhu cầu chung này của xã viên chỉ được đáp ứng hoặc được đáp ứng hiệu quả hơn thông qua HTX. Vì vậy, nếu HTX không đáp ứng được các nhu cầu chung của xã viên ở mức độ nhất định, sự liên kết và hợp tác giữa các thành viên sẽ bị yếu đi và HTX sẽ bị suy yếu. Các HTX nhỏ hơn có tính chất hoạt động tương tự nhau có thể hợp nhất với nhau dưới hình thức liên hiệp HTX. Với những lý do trên, HTX là một tổ chức kinh tế - xã hội liên kết các cá nhân được hình thành nhằm đáp ứng các nhu cầu chung xã viên theo nguyên tắc tương trợ.

Thứ hai, HTX được thành lập nhằm đáp ứng cả nhu cầu kinh tế, văn hóa và xã hội của xã viên và cộng đồng.

Khác với các doanh nghiệp được thành lập thuần túy vì mục đích là tối đa hóa lợi nhuận (mục tiêu kinh tế) của các nhà đầu tư (những người góp vốn), các HTX được thành lập nhằm đáp ứng cả các nhu cầu về văn hóa và xã hội của cả các xã viên và cộng đồng dân cư. Chính vì vậy, một phần quan trọng trong lợi nhuận của HTX được dùng để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa - xã hội chung của cộng đồng xã viên. Cách thức phân phối này cũng góp phần tạo ra cơ chế hiệu quả để các thành viên HTX cùng chia sẻ khó khăn, trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích, từ đó khuyến khích phát triển tinh thần hợp tác, tính cộng đồng, tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các xã viên HTX.

Thứ ba, HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ có tính dân chủ cao.

HTX được thành lập trên cơ sở góp vốn của xã viên, những người đồng sở hữu HTX, vì vậy hợp tác xã là một đơn vị kinh tế tự chủ. Tuy nhiên, HTX khác với các tổ chức kinh tế khác (các doanh nghiệp) ở tính dân chủ cao. Lý do cơ bản là xã viên HTX vừa là người góp vốn vừa là người sử dụng sản phẩm/dịch vụ của HTX, vừa là người quản lý vừa là người làm thuê. Là người góp vốn, cộng đồng xã viên sẽ cùng quyết định làm cái gì và làm như thế nào để đáp ứng cao nhất nhu cầu chung về kinh tế, văn hoá, xã hội của họ. Là người sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX, xã viên có khả năng tác động mạnh mẽ đến định hướng sản xuất và hoạt động của HTX. Với tư cách là người quản lý, các xã viên HTX có quyền tham gia vào các quyết định của HTX một cách dân chủ. Là người làm thuê, các xã viên HTX được quyền hưởng các lợi ích cơ bản của người lao động là tiền lương và các quyền lợi liên quan khác. Vì vậy, HTX là tổ chức tự chủ của những người lao động được kiểm soát theo nguyên tắc dân chủ cao. Điều này làm cho HTX khác với các doanh nghiệp có mục tiêu thuần túy về mặt thương mại.

Thứ tư, tài sản chung của HTX là bất khả chuyển nhượng.

Vốn góp của xã viên HTX ở nhiều nước có cách gọi khác nhau: dự phần xã hội, vốn góp điều lệ, cổ phần. Tài sản chung được hình thành và phát triển không có mục đích tự thân, mà hướng đến việc phục vụ nhu cầu chung về kinh tế, văn hóa và xã hội của các xã viên. Vì vậy, trong suốt quá trình tham gia HTX, xã viên chỉ được sở hữu tư nhân phần vốn góp ban đầu của họ; còn tài sản hình thành từ hoạt động của HTX là tài sản chung không chia của HTX; trường hợp HTX bị giải thể, tài sản này phải được chuyển giao cho chính quyền địa phương; trường hợp xã viên rút ra khỏi HTX, thì chỉ rút phần vốn đã góp. Tài sản chung không chia được xem là điều kiện thiết yếu cho sự phát triển bền vững và liên tục của HTX. Sở hữu tài sản chung không phân chia là đặc điểm mang tính bản chất của HTX, phản ánh tính cộng đồng cao HTX, khác hẳn với các công ty, theo đó sở hữu của thành viên góp vốn tương ứng với tỷ lệ góp vốn của mình trong suốt quá trình hình thành và phát triển của công ty.

2          Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX

Theo Điều 7, Luật HTX 2012 [2] thì HTX được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau đây:

  1. Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi HTX. HTX tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi liên hiệp HTX.
  2. HTX, liên hiệp HTX kết nạp rộng rãi thành viên, HTX thành viên.
  3. Thành viên, HTX thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của HTX, liên hiệp HTX; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ.
  4. HTX, liên hiệp HTX tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.
  5.  Thành viên, HTX thành viên và HTX, liên hiệp HTX có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ. Thu nhập của HTX, liên hiệp HTX được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, HTX thành viên hoặc theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với HTX tạo việc làm.
  6. HTX, liên hiệp HTX quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho thành viên, HTX thành viên, cán bộ quản lý, người lao động trong HTX, liên hiệp HTX và thông tin về bản chất, lợi ích của HTX, liên hiệp HTX.
  7. HTX, liên hiệp HTX chăm lo phát triển bền vững cộng đồng thành viên, HTX thành viên và hợp tác với nhau nhằm phát triển phong trào HTX trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế.

3          Phân loại HTX

Theo Thông tư số 01/2006/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành ngày 19/01/2006 hướng dẫn tiêu chí đánh giá và phân loại HTX [4] thì ở Việt Nam có 12 loại HTX sau đây:

  1. HTX nông, lâm nghiệp, làm muối.
  2. HTX xã thủy sản.
  3. HTX công nghiệp.
  4. HTX sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước.
  5. HTX xây dựng.
  6. HTX thương nghiệp.
  7. HTX vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc. 
  8. HTX tài chính, tín dụng.
  9. HTX khoa học và công nghệ.
  10. HTX kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn.
  11. HTX giáo dục, đào tạo.
  12. HTX y tế, cứu trợ xã hội, phục vụ cá nhân và cộng đồng.

4          Thành lập HTX

Khi các cá nhân, các hộ gia đình, các tổ chức…  hoạt động trong một lĩnh vực nào đó có nhu cầu hợp tác hành động để đạt được các mục tiêu nhất định mà từng thể nhân riêng lẻ không thể thực hiện được thì có thể thành lập một HTX riêng để thực hiện các mục tiêu đó. Một HTX thường ra đời do ban đầu có một số người phát hiện ra nhu cầu của một nhóm xã hội nào đó và có ý tưởng về việc sáng lập một HTX, họ chính là các sáng lập viên tiên phong. Các sáng lập viên tiên phong là những người vận động, tuyên truyền thành lập HTX và kêu gọi các cá nhân, các hộ gia đình, các tổ chức khác cùng trở thành sáng lập viên, đó là các cá nhân, các hộ gia đình, các pháp nhân tự nguyện cam kết sáng lập, tham gia thành lập HTX. Các sáng lập viên là những người xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh; dự thảo điều lệ HTX; thực hiện các bước công việc cần thiết để tổ chức hội nghị thành lập HTX. Việc thành lập HTX phải tuân theo các quy định của Pháp luật mà cụ thể là Luật HTX. Theo Luật HTX 2012 [2] thì thủ tục thành lập HTX có nội dung cơ bản như sau.

Sau khi các sáng lập viên tiên phong đã thành công trong việc vận động, tuyên truyền thành lập HTX thì phải tiến hành mở hội nghị thành lập HTX. Thành phần tham gia hội nghị bao gồm các cá nhân sáng lập viên, những người đại diện hợp pháp của sáng lập viên, những người đại diện hợp pháp của các hộ gia đình, các pháp nhân và các đối tượng khác có nguyện vọng gia nhập HTX đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Hội nghị thành lập HTX thảo luận về dự thảo điều lệ, phương án sản xuất, kinh doanh của HTX và dự kiến danh sách thành viên. Sau đó hội nghị thông qua điều lệ và những người tán thành điều lệ trở thành các thành viên. Các thành viên tiếp tục thảo luận và quyết định về: i) Phương án sản xuất, kinh doanh; ii) Bầu hội đồng quản trị và chủ tịch hội đồng quản trị, quyết định việc lựa chọn giám đốc trong số các thành viên; iii) Bầu ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên; iv) Các nội dung khác có liên quan đến việc thành lập và tổ chức, hoạt động của HTX. Nghị quyết của hội nghị về những nội dung nói trên phải được biểu quyết theo nguyên tắc đa số.

Điều lệ HTX phải nêu rõ các nội dung sau đây:

  1. Tên gọi, địa chỉ trụ sở chính; biểu tượng (nếu có).
  2. Mục tiêu hoạt động.
  3. Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh.
  4. Đối tượng, điều kiện, thủ tục kết nạp, thủ tục chấm dứt tư cách thành viên; biện pháp xử lý đối với thành viên nợ quá hạn.
  5. Mức độ thường xuyên sử dụng sản phẩm, dịch vụ; giá trị tối thiểu của sản phẩm, dịch vụ mà thành viên phải sử dụng; thời gian liên tục không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX nhưng không quá 03 năm; thời gian liên tục không làm việc cho HTX đối với HTX tạo việc làm nhưng không quá 02 năm.
  6. Quyền và nghĩa vụ của thành viên.
  7. Cơ cấu tổ chức HTX; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên; thể thức bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm thành viên hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên; bộ phận giúp việc cho HTX.
  8. Số lượng thành viên, cơ cấu và nhiệm kỳ của hội đồng quản trị, ban kiểm soát; trường hợp thành viên hội đồng quản trị đồng thời làm giám đốc (tổng giám đốc).
  9. Trình tự, thủ tục tiến hành đại hội thành viên và thông qua quyết định tại đại hội thành viên; tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục bầu đại biểu tham dự đại hội đại biểu thành viên.
  10. Vốn điều lệ, mức vốn góp tối thiểu, hình thức góp vốn và thời hạn góp vốn; trả lại vốn góp; tăng, giảm vốn điều lệ.
  11. Việc cấp, cấp lại, thay đổi, thu hồi giấy chứng nhận vốn góp.
  12. Nội dung hợp đồng dịch vụ giữa HTX với thành viên bao gồm nghĩa vụ cung ứng và sử dụng sản phẩm, dịch vụ; giá và phương thức thanh toán sản phẩm, dịch vụ.
  13. Việc cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm mà hợp tác xã cam kết cung ứng, tiêu thụ cho thành viên ra thị trường.
  14. Đầu tư, góp vốn, mua cổ phần, liên doanh, liên kết; thành lập doanh nghiệp của HTX.
  15. Lập quỹ; tỷ lệ trích lập quỹ; tỷ lệ, phương thức phân phối thu nhập.
  16. Quản lý tài chính, sử dụng và xử lý tài sản, vốn, quỹ và các khoản lỗ; các loại tài sản không chia.
  17. Nguyên tắc trả thù lao cho thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên; nguyên tắc trả tiền lương, tiền công cho người điều hành, người lao động.
  18. Xử lý vi phạm điều lệ và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ.
  19. Sửa đổi, bổ sung điều lệ.
  20. Các nội dung khác do đại hội thành viên quyết định nhưng không trái với quy định của Luật HTX và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Sau hội nghị thành lập, HTX phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được phép hoạt động. Hồ sơ đăng ký bao gồm: giấy đề nghị đăng ký hợp tác xã; điều lệ HTX; phương án sản xuất, kinh doanh; danh sách thành viên; danh sách hội đồng quản trị, giám đốc, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên; nghị quyết hội nghị thành lập. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký, trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

5          Vai trò kinh tế - xã hội của HTX

Theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP [3] thì HTX có các vai trò kinh tế xã hội sau đây.

5.1       Vai trò đối với việc bảo đảm mức sống tối thiểu

Các xã viên tham gia HTX phần lớn là những người nghèo, thu nhập thấp, gặp nhiều khó khăn về kinh tế. Do đó, thu nhập từ HTX lại tương đối quan trọng đối với xã viên, thu nhập từ HTX lại càng đặc biệt quan trọng đối với các xã viên gia đình không tổ chức các hoạt động kinh tế. HTX có vai trò rất quan trọng trong việc giúp đỡ các xã viên và hộ gia đình xã viên trong điều kiện kinh tế khó khăn. Hỗ trợ vay vốn cho xã viên thông qua hoạt động của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân đang được coi là một biện pháp quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo. Thông qua các hoạt động tài chính vi mô, các Quỹ tín dụng nhân dân đã giúp hàng triệu xã viên thoát khỏi tình trạng đi vay nặng lãi, tín dụng chợ đen trong quá trình huy động vốn cho sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề, đẩy lùi nghèo đói và vươn lên khá giả.

HTX cũng góp phần nâng cao năng lực sản xuất cho người nghèo thông qua phổ biến kỹ thuật, công nghệ sản xuất, ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất, để phát triển sản xuất theo chiều sâu. HTX tạo ra thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa và hiện đại hóa sản xuất, hình thành các khu vực chuyên canh (trồng rau sạch, trái cây, chăn nuôi, v.v...), gắn sản xuất với thị trường, phát triển kinh tế và xóa bỏ cung cách làm ăn riêng lẻ, tự cung, tự cấp. HTX cũng tạo cơ hội cho các hộ nghèo phát triển ngành nghề thông qua quá trình tập trung vốn và mở rộng sản xuất, dạy nghề cho người lao động, tạo việc làm và thu nhập thông qua phát triển các ngành nghề mới.

Tóm lại, HTX ở nước ta là nơi tập hợp của những người lao động nghèo, thu nhập thấp, gặp nhiều khó khăn về kinh tế. Sự tồn tại và phát triển của HTX đã giúp nhóm người này cải thiện đời sống và góp phần đảm bảo mức sống tối thiểu của họ. Thực tế HTX đã góp phần tạo ra nguồn thu nhập quan trọng, cung cấp hàng hóa, dịch vụ giá rẻ cho xã viên, hỗ trợ xã viên tiếp cận các nguồn tín dụng vốn và kỹ thuật sản xuất mới.

5.2       Vai trò trong việc cải thiện thị trường lao động

Theo số liệu ở điều tra của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển năm 2011, mỗi hộ xã viên trung bình có 3,1 lao động, trong đó số có 1,39 lao động /hộ làm việc cho HTX và có 1,28 lao động/hộ là xã viên HTX. Kết quả này chỉ ra rằng HTX đã tạo ra gần 45% việc làm cho gia đình xã viên. Tỷ lệ này cao hơn ở các hộ gia đình không tổ chức hoạt động kinh tế (trên 50%) và thấp hơn ở các hộ gia đình có tổ chức hoạt động kinh tế (khoảng trên 42%). Ngoài việc tạo ra số lượng lớn công ăn việc làm, HTX cũng góp phần tạo ra cơ hội làm việc thường xuyên và ổn định cho xã viên. Trong hoàn cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, như khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới năm 2008, tình trạng thất nghiệp và lạm phát cao, HTX đã tạo công văn việc làm, nâng cao thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động. Tóm lại, HTX ở nước ta là một kênh quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm ổn định cho đông đảo người nghèo, có ít cơ hội để tham gia thị trường lao động ở các khu vực khác.

5.3       Vai trò trong việc thực thi các chính sách bảo hiểm

Mặc dù có những dấu hiệu tích cực, vai trò của HTX đối với việc thực thi các chính sách bảo hiểm đối với người lao động còn yếu. Ngoài việc thực thi chính sách bảo hiểm xã hội, các HTX cũng đóng vai trò nhất định trong việc khuyến khích và tạo điều kiện để xã viên tham gia mua bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Có trên 58% xã viên được HTX khuyến khích hoặc hỗ trợ để mua bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm y tế tự nguyện. Tóm lại, HTX đã phần nào thực hiện được vai trò giúp người dân tiếp cận dịch vụ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Các hình thức chủ yếu mà HTX có thể thực thi để giúp người dân tiếp cận dịch vụ bảo hiểm là đóng bảo hiểm cho xã viên và khuyến khích, tạo điều kiện để xã viên mua các loại bảo hiểm. Tuy nhiên, HTX chưa thực hiện được một cách đầy đủ trách nhiệm đóng bảo hiểm bắt buộc cho xã viên theo quy định của pháp luật.

5.4       Vai trò trong việc thực thi chính sách ưu đãi xã hội

Mặc dù việc thực thi chính sách ưu đãi xã hội qua HTX chưa được chính thức hóa, tuy nhiên các hoạt động ưu đãi xã hội đã được triển khai ở nhiều HTX dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau (đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ các gia đình thương binh, liệt sỹ, tạo công ăn việc làm cho các gia đình thương binh, liệt sỹ). Kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển năm 2011 cho thấy có 31,34% xã viên được hỏi đã từng được hưởng các ưu đãi xã hội từ hoặc thông qua HTX. Trên thực tế, các HTX đã triển khai nhiều hoạt động ưu đãi xã hội khá đa dạng. Mặc dù không được quy định về nghĩa vụ trong luật HTX nhưng vì HTX là tổ chức có tính cộng đồng cao nên HTX đã thực hiện được một phần chính sách ưu đãi xã hội của Nhà nước dưới các hình thức phong phú đa dạng có tính cộng đồng cao.

5.5       Vai trò trong việc thực hiện trợ giúp xã hội

Nhìn chung, tỷ lệ xã viên được HTX trợ cấp thông qua các hoạt động trợ cấp chính thức còn thấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy có khoảng 50% số xã viên đã nhận được các khoản trợ cấp đột xuất và 12,2% số xã viên được nhận các khoản trợ cấp thường xuyên từ HTX. Thực tế đã cung cấp rất nhiều ví dụ điển hình về việc HTX giúp đỡ xã viên trong cuộc sống. Với tên gọi như tổ đoàn kết trên biển, tổ hợp tác, bà con ở Quảng Bình, Khánh Hòa, Cà Mau, v.v… không chỉ tập hợp lại để giúp nhau làm kinh tế, cùng khai thác, đánh bắt hải sản mà còn hỗ trợ và bảo vệ nhau những khi gặp hoạn nạn ngoài khơi xa. Tóm lại, ngoài việc thực hiện trợ giúp xã hội dưới hình thức trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất, HTX còn có khả năng thực hiện các hoạt động trợ giúp xã hội mang tính cộng đồng cao mà các tổ chức khác khó có thể thực hiện được như hỗ trợ nhau vượt qua khó khăn trong hoạt động sản xuất.

6          Tác động của cơ chế, pháp luật và chính sách đến sự phát triển của HTX

Theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP thì Tác động của cơ chế, pháp luật và chính sách đến sự phát triển của HTX ở Việt Nam như sau [3].

6.1       Tác động của cơ chế kinh tế đến sự phát triển của HTX

Tác động của cơ chế kinh tế đến sự phát triển của HTX được phản ánh rõ ràng nhất vào thời điểm năm 1986. Trước năm 1986, với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, HTX cùng với kinh tế nhà nước là hai hình thức tổ chức kinh tế chính thức được tồn tại. Đảng và Nhà nước đã quan tâm và phát triển kinh tế hợp tác và HTX từ khi đất nước được giành độc lập (1945). Tháng 4/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (khóa II) đã quyết định chính thức đường lối, phương châm, chính sách hợp tác hóa nông nghiệp và Trung ương đã triệu tập nhiều hội nghị nhằm thúc đẩy phong trào hợp tác hóa. Cuối năm 1960, đại bộ phận nông dân ở miền Bắc đã tham gia HTX bậc thấp. Năm 1961, Nhà nước công bố điều lệ HTX công nghiệp Việt Nam làm căn cứ thống nhất để củng cố tổ chức và cải tiến quản lý HTX. Ngày 13/1/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 100-CT/TW về “mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX nông nghiệp”. Đây được coi là bước đột phá mang tính bước ngoặt đầu tiên về đổi mới mô hình HTX, phân chia lại vai trò và lợi ích giữa HTX và xã viên. Sự phân chia lại vai trò và lợi ích giữa HTX, xã viên cũng như giữa Nhà nước và HTX đã bước đầu được chú trọng. Đó là nông dân được nhận ruộng khoán, chỉ cần nộp sản lượng khoán, phần còn lại được quyền tự do tiêu thụ và bán cho các cơ quan nhà nước theo giá thỏa thuận, và sau này được quyền tiêu thụ trên thị trường tự do.

Từ năm 1986, mặc dù được khẳng định là một trong những nền tảng cơ bản của nền kinh tế, HTX không còn được coi là một trong hai thành phần kinh tế độc tôn như trước đây. Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã chính thức mở ra tiến trình “Đổi mới” với quan điểm cơ bản khẳng định sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xuyên suốt cả thời kỳ, trong các Nghị quyết của Đảng qua các đại hội lần thứ VIII (1996), IX (2001), X (2006) luôn khẳng định kinh tế nhà nước được đổi mới cùng với kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội Đại hội Đảng XI (2011) tiếp tục khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối, trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể sẽ trở thành nền tảng ngày càng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Những chuyển đổi về cơ chế vận hành của nền kinh tế trong giai đoạn 1986 đến nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường hoạt động của HTX. Sự phát triển của HTX gặp phải sự chọn lọc của thị trường và sự cạnh tranh từ các hình thức tổ chức kinh tế tư nhân. Kết quả là hàng loạt HTX bị giải thể, chỉ có những HTX hoạt động đúng với bản chất của nó, có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường là có thể tồn tại và phát triển được. Yêu cầu tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường đã làm cho bản chất của HTX giai đoạn sau 1986 (tự chủ, tự nguyện, dân chủ cao, vì nếu không xã viên sẽ lựa chọn tham gia các hình thức tổ chức kinh tế khác) khác với giai đoạn trước năm 1986 (mang tính hành chính, áp đặt, thiếu dân chủ, minh bạch).

Tóm lại, trong giai đoạn 1955-1986, HTX được coi là một trong hai hình thức tổ chức kinh tế chính thức vì vậy đã phát triển rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, các nguyên tắc cơ bản của HTX như tự nguyện, tự chủ, dân chủ, công bằng, minh bạch không được thực hiện đầy đủ, dẫn đến sự phát triển thiếu nội lực. Sau năm 1986, sự vận hành của nền kinh tế thị trường đã làm giảm vai trò của HTX trong nền kinh tế. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện này, các nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, dân chủ, công bằng, minh bạch dần được củng cố ở các HTX. Điều này đã tạo ra những thay đổi về bản chất của HTX từ năm 1986 đến nay.

6.2       Tác động của pháp luật đến sự phát triển của HTX

Về pháp luật, trong giai đoạn trước 1996, các HTX hoạt động theo các điều lệ mẫu thống nhất do Quốc hội và Chính phủ quy định. Nghị quyết của Quốc hội ngày 27/5/1959 về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp là văn bản pháp lý cao nhất đối với khu vực HTX nông nghiệp. Nghị định 649/TTg ngày 30/12/1955 quy định việc tổ chức HTX mua bán và HTX tiêu thụ. Điều lệ cho HTX trong lĩnh vực công thương nghiệp được ban hành theo Nghị định 76/TTg ngày 8/4/1974 và sau đó là Nghị định số 119/CP ngày 9/4/1980. Chính vì vậy, trong giai đoạn này, HTX được thành lập và hoạt động theo các quyết định quản lý hành chính nhà nước và chưa có Luật về HTX. Với việc thực hiện cải tạo nông nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh, HTX đã được hình thành ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành kinh tế và ở các địa phương. HTX được phát triển nhanh về số lượng và quy mô chủ yếu bằng các biện pháp hành chính của Nhà nước. Phương thức tổ chức phổ biến của HTX là xã viên góp chung tài sản và vốn để tiến hành sản xuất chung. Đồng thời, HTX chịu sự điều hành của Nhà nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, đề cao gần như tuyệt đối vai trò sở hữu tập thể và sản xuất tập thể, xem nhẹ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và vai trò kinh tế hộ, kinh tế cá thể. HTX vừa là tổ chức kinh tế vừa là tổ chức xã hội. Quan hệ lợi ích giữa Nhà nước - HTX - xã viên không được phân định rạch ròi, đặc biệt lợi ích của xã viên không được bảo đảm.

Năm 1996, Luật HTX ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1997 cùng các văn bản hướng dẫn đã đặt cơ sở pháp lý cho quá trình đổi mới mạnh mẽ tư duy về bản chất của loại hình tổ chức kinh tế này cũng như tạo hành lang pháp lý cho các HTX hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một hệ thống pháp luật khá hoàn chỉnh về HTX, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Điểm cơ bản nhất trong Luật HTX năm 1996 là đổi mới tư duy về bản chất HTX được thông qua định nghĩa: “HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước, v.v…”. Luật HTX năm 1996 đã tạo ra động lực và sức sống mới cho khu vực kinh tế hợp tác và HTX. Các HTX cũ đã chuyển đổi và bắt đầu hồi phục, phát triển với các nguyên tắc được đông đảo xã viên đồng tình, ủng hộ. Bên cạnh các HTX cũ chuyển đổi, hàng nghìn HTX mới được thành lập ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Những HTX này tuy còn nhỏ về quy mô vốn, số lượng xã viên nhưng đã tạo ra những mẫu hình HTX mới, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có tiềm năng để phát triển trong điều kiện mới. Đồng thời, Luật HTX ra đời đã thúc đẩy đổi mới tư duy không coi các Bộ, ngành, Chính quyền địa phương các cấp là “cơ các quan chủ quản HTX”.

Đến năm 2003, Quốc hội tiếp tục sửa đổi Luật HTX và ban hành Luật HTX mới vào năm 2003 và bắt đầu áp dụng từ  ngày 1/7/2004. Luật HTX năm 2003 cùng các văn bản hướng dẫn đã thể chế hóa một bước quan điểm mới của Nghị quyết TW 5 (khóa IX) về phát triển kinh tế tập thể. Theo tư tưởng của Luật mới, HTX được thành lập dựa trên sở hữu của các xã viên và sở hữu tập thể, liên kết giữa những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm; chức năng quản lý của ban quản trị và chức năng điều hành của chủ nhiệm HTX được phân định rõ ràng hơn; thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh tiếp tục được đơn giản hoá và minh bạch hóa; các pháp nhân, cán bộ công chức có thể tham gia HTX.

Sau khi Luật HTX được ban hành, Chính phủ ban hành nhiều Nghị định và các Bộ ban hành nhiều thông tư, văn bản khác hướng dẫn thực hiện Luật đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng, khá đồng bộ, cụ thể, thuận lợi cho HTX phát triển. Đây là cơ sở pháp lý tương đối hoàn chỉnh thúc đẩy HTX phát triển đúng vị trí và bản chất của nó.

Tóm lại, tác động của pháp luật đến sự phát triển của HTX được thể hiện rõ nhất vào năm 1996 và 2003. Sự ra đời của Luật HTX vào năm 1996 đã làm cho HTX trở nên tự chủ hơn, ít chịu sự chi phối hơn từ các cơ quan hành chính nhà nước. Điều này đã góp phần cải thiện nguyên tắc tự chủ của HTX. Luật HTX năm 2003 phần nào đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của HTX, tuy nhiên bản chất của HTX cũng chưa được xác định cụ thể, đã dẫn tới xu hướng chạy theo lợi nhuận và doanh nghiệp hóa ở nhiều HTX. Điều này đã làm cho bản chất của HTX có có những sai lệch, việc gia nhập HTX của xã viên mới gặp nhiều khó khăn ở một số địa phương.

6.3       Tác động của chính sách phát triển HTX

Nhằm thúc đẩy sự phát triển của HTX, trong những năm gần đây Chính phủ đã ban hành và thực thi các chính sách khác nhau, tuy nhiên tác động của các chính sách này đến sự phát triển của HTX còn ở mức hạn chế.

6.3.1    Chính sách đất đai

Mặc dù đã có các quy định về ưu đãi đất đai đối với HTX (Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, Nghị định 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về tiền thuê đất, thuê mặt nước, Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX, v.v…), song chính sách hỗ trợ đất đai cho các HTX khó khả thi do quỹ đất hạn chế, chưa có văn bản hướng dẫn trình tự, thủ tục cụ thể để thực hiện. Nhiều HTX chưa được hưởng những ưu đãi từ chính sách đất đai, chưa có trụ sở làm việc, phần lớn sử dụng nhà của chủ nhiệm HTX để làm trụ sở, hoặc phải thuê để làm nơi giao dịch và hoạt động. Chỉ một số ít địa phương đã tạo điều kiện về mặt bằng giúp HTX xây dựng văn phòng, nhà xưởng và các cơ sở hạ tầng khác, thực hiện chính sách miễn giảm tiền thuê đất có thời hạn.

6.3.2    Chính sách tín dụng

Để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng của HTX, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định khác nhau như Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 1/4/2004 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và Nghị định số 20/2005/NĐ-CP ngày 28/2/2005 của Chính phủ về bổ sung Danh mục dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo Nghị định số 106/2004/NĐ-CP, Nghị định 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, v.v... Một số địa phương đã hoặc đang khẩn trương tiến hành thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó có HTX nông nghiệp; mở rộng và thành lập mới các quỹ tín dụng nhân dân tạo thành một kênh tín dụng cho HTX; ưu tiên dành nguồn kinh phí Quỹ quốc gia giải quyết việc làm hỗ trợ HTX. Tuy nhiên, nhìn chung, các HTX rất khó vay vốn từ các tổ chức tín dụng do không có tài sản thế chấp; tình hình vay vốn của các tổ chức kinh tế tập thể chưa được cải thiện; các ngân hàng chính sách và ngân hàng nông nghiệp chỉ cho một số ít HTX vay vốn với số lượng hạn chế.

6.3.3    Chính sách thuế

Theo Nghị định 88/2005/NĐ-CP, Nghị định 164/2003/NĐ-CP, Thông tư 128/2003/TT-BTC và Thông tư 88/2004/TT-BTC quy định cụ thể chính sách miễn giảm thuế thu nhập, thuế môn bài; riêng HTX nông nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập từ hoạt động dịch vụ trực tiếp phục vụ đời sống xã viên (khoản 2 Điều 6, Nghị định 88/2005/NĐ-CP). Theo quy định của các nghị định và thông tư ở trên, cục thuế một số địa phương đã thực hiện miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các HTX có đủ điều kiện. Tuy nhiên, nhìn chung, các địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến việc áp dụng việc miễn giảm thuế cho các đối tượng HTX hoạt động ở vùng sâu, vùng khó khăn, trong khi những đối tượng này lại hạn chế trong việc nắm bắt thông tin, tiếp cận những chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

6.3.4    Chính sách hỗ trợ ứng dụng đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, khuyến nông, khuyến ngư và khuyến công

Hàng năm, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các ngành chức năng trực thuộc tỉnh (Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, v.v…) chuyển giao cho các HTX nông nghiệp và các tổ hợp tác về công nghệ sinh học, giống mới, công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch, hỗ trợ chuyển đổi cây trồng, vật nuôi; dịch vụ khuyến công, khuyến thương, khuyến ngư, v.v… tác động tích cực đến việc đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh của HTX.

6.3.5    Chính sách hỗ trợ tiếp thị, mở rộng thị trường

Một số trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư tỉnh đã tạo điều kiện để HTX quảng bá thương hiệu, tìm đối tác thương mại, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, quản lý, và tiêu thụ sản phẩm; tổ chức cho các HTX thăm quan học tập tìm kiếm thị trường đầu vào, đầu ra cho các sản phẩm, tạo điều kiện cho các HTX tham gia các hội chợ thương mại trong tỉnh, khu vực và toàn quốc. Tuy nhiên, các HTX hầu như chưa chủ động để được hưởng ưu đãi về hỗ trợ xúc tiến thương mại, đặc biệt là đăng ký thương hiệu và đăng ký sản phẩm thương mại, quảng bá tên HTX và các sản phẩm, dịch vụ lên mạng internet, tránh tranh chấp tên HTX và tên sản phẩm của HTX.

6.3.6    Chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống của cộng đồng xã viên và tham gia các chương trình kinh tế - xã hội

Một số tỉnh tập trung bố trí vốn đầu tư từ ngân sách đầu tư hạ tầng phục vụ nông nghiệp, nông thôn, theo đó HTX cũng được hưởng lợi khá lớn như: giao thông, trường học, trạm y tế, nước sạch nông thôn, vệ sinh môi trường, thủy lợi kênh mương nội đồng. Tuy nhiên, các HTX, nhất là HTX xây dựng chưa được hưởng ưu đãi của chính sách này; không được thông báo về ngân sách dự án chương trình quốc gia thực hiện trên địa bàn; không được ưu tiên mời thầu những dự án mà đối tượng hưởng lợi là cộng đồng (trường học, bệnh xá, trạm, trại, v.v…). Các cơ quan có thẩm quyền chưa chú ý giao cho HTX quản lý hoặc đấu thầu quyền khai thác, duy tu, sửa chữa các công trình.

Tóm lại, trong thời gian qua Chính phủ đã đưa ra và triển khai nhiều chính sách khác nhau nhằm thúc đẩy sự phát triển của HTX. Các chính sách này phần nào đã tác động đến sự phát triển của HTX, tuy nhiên, tác động của các chính sách này còn tương đối hạn chế. Sự hạn chế của những tác động một mặt phản ánh việc thực thi các chính sách chưa triệt để, sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan liên quan trong việc thực thi các chính sách này, đặc biệt mặc dù đã có những ưu đãi nhất định, việc tiếp cận các nguồn vốn rất khó khăn do HTX không có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, nguyên nhân cơ bản của những hạn chế này là sự không rõ ràng trong nhận thức về khái niệm HTX. HTX cần được coi là một tổ chức kinh tế - xã hội (hơn là tổ chức kinh tế thuần túy theo các văn bản pháp luật hiện hành) thì họ mới được hưởng các chính sách ưu đãi xã hội về mặt đất đai, thuế, đầu tư, và các ưu đãi khác.

7          Sự phát triển của HTX ở việt nam

Sự phát triển của HTX ở Việt Nam trong giai đoạn 1955-2012 được dẫn theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP [3], trong giai đoạn từ 2013 tới nay được dẫn theo TS. Nguyễn Thị Thu Hoài, Trường ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội [5].

7.1       Các giai đoạn phát triển

7.1.1    Sự phát triển của tổ hợp tác (THT)

(Dẫn theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP [3)

Ở Việt Nam, THT tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như tổ góp vốn, hợp sức lao động để thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất mà từng cá nhân, hộ đơn lẻ không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả. THT hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện tham gia của các thành viên có những nhu cầu chung, cùng góp sức, góp vốn để hỗ trợ hoạt động kinh tế của các thành viên. Theo Luật Dân sự năm 2005, THT được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban Nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự. Các THT đã có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sản xuất, kinh doanh của các hộ thành viên, tạo việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận lao động nông nghiệp ở nông thôn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 

Về mặt số lượng, năm 2000, cả nước mới chỉ có xấp xỉ 150.000 THT, đến năm 2005 con số này đã lên tới 300.000 THT, theo số liệu thống kê thì bình quân giai đoạn năm 2001-2005 số lượng THT tăng khoảng 13,1%/năm. Tính đến tháng 6/2010, số THT tăng và phát triển rộng trên phạm vi cả nước, tổng số THT đã lên tới 360.000 tổ, tăng 20% so với năm 2005. Tổng số lao động ở các THT đã tăng từ 1,7 triệu người vào năm 2000 lên khoảng 3,6 triệu người vào năm 2005 và xấp xỉ 4 triệu người năm 2010. Về mặt cơ cấu, năm 2005 có 300.000 THT, trong đó 90.000 THT hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (chiếm 30%), 70.000 THT ở các ngành nghề phi nông nghiệp (chiếm 23,3%), 140.000 tổ góp vốn và dịch vụ (chiếm 46,7%). Năm 2010, trong số 360.000 THT có 100.000 THT thuộc lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp (chiếm 27,8%), 150.000 tổ góp vốn (chiếm 41,7%), 65.000 tổ tiểu thủ công nghiệp, xây dựng (chiếm 18,1%) và 45.000 tổ thuộc các lĩnh vực khác (chiếm 12,4%).

Về mặt tổ chức hoạt động, các THT có quy mô tương đối nhỏ từ 10-13 hộ, cơ cấu tổ chức đơn giản, nội dung hoạt động thiết thực và phù hợp với trình độ người dân. Phần lớn THT hoạt động theo hình thức hỗ trợ lẫn nhau, liên kết linh hoạt và mang tính ngắn hạn. Khi tham gia THT, người lao động được giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình. Tuy nhiên, tại một số địa phương như ở vùng miền núi và trung du phía Bắc việc tổ chức hoạt động của THT còn lỏng lẻo, chủ yếu theo hình thức phân công, đổi công, hợp tác lao động giản đơn trong từng khâu, từng việc nên năng suất lao động thấp. THT, xét về bản chất có nhiều điểm tương đồng với HTX, đặc biệt là tinh thần tự nguyện và  hợp tác cao giữa các thành viên. Chính vì vậy, các THT là tiền đề để phát triển các HTX mới. Trong năm 2010, có 1.219 THT lựa chọn mô hình HTX để đăng ký hoạt động.

Sự phát triển nhanh chóng của các tổ hợp tác trong những năm gần đây một mặt phản ánh nhu cầu cao về hợp tác trong tổ chức sản xuất của người lao động, mặt khác phản ánh hợp tác giữa người lao động nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh là nguồn gốc và động lực phát triển của tổ hợp tác nói chung và kinh tế hợp tác nói riêng.

7.1.2    Sự phát triển của HTX

(Dẫn theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP [3])

Quá trình phát triển của HTX ở Việt Nam có thể được chia thành các giai đoạn chủ yếu như sau: (i) giai đoạn trước 1986; (ii) giai đoạn 1987-1996; (iii) giai đoạn 1997-2003; và (iv) giai đoạn 2004 đến nay.

Năm 1955 cả nước có 45 HTX, đến năm 1986 con số này tăng lên 73.470. Tuy nhiên đến năm 1996 số lượng HTX chỉ còn 18.607 và con số này năm 2003 là 14.207. Đến năm 2010, số lượng HTX tăng lên đạt con số 18.244. Trung bình trong giai đoạn 1955-1986 mỗi năm có thêm 2.369 HTX. Giai đoạn 1987-1996 chứng kiến sự suy giảm nhanh chóng với số lượng HTX giảm bình quân hàng năm là 5.486. Giai đoạn 1987-1996, số lượng HTX tiếp tục giảm mạnh với mức giảm bình quân hàng năm là 629. Giai đoạn 2004-2010, báo hiệu sự phục hồi của số lượng HTX với số lượng tăng thêm bình quân hàng năm là 577. Từ năm 2005 đến nay cơ cấu HTX theo ngành nghề tương đối ít biến động (Đồ thị 4). Nông nghiệp là lĩnh vực có số lượng HTX hoạt động nhiều nhất chiếm gần 50% số lượng HTX. Tỷ trọng HTX điện nước đang có xu hướng giảm xuống, trong khi đó tỷ trọng các HTX công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ đang có xu hướng tăng lên.

Thực trạng phát triển HTX ở nước ta từ năm 1955 đến nay (hưng thịnh, suy thoái, phục hưng) phản ánh tính bất ổn trong sự phát triển của HTX. Tuy nhiên, sự phục hưng của HTX trong gần 10 năm trở lại đây, sự hiện diện của các HTX trong nhiều lĩnh vực khác nhau phản ánh phát triển HTX là một hình thức tổ chức kinh tế tất yếu trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

7.1.2.1 Tình hình phát triển HTX giai đoạn 1955-1986

(Dẫn theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP [3])

Giai đoạn 1955-1986, HTX được xác định là một trong hai hình thức tổ chức kinh tế chính thức ở Việt Nam. Giai đoạn này được coi là giai đoạn bùng nổ của HTX với số lượng HTX tăng từ 45 HTX năm 1955 lên 73.470 HTX năm 1986. HTX trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến thay dần hình thức kinh tế cá thể và tổ đội sản xuất. Nhiều HTX đã phát triển thành HTX bậc cao có quy mô toàn thôn, toàn xã, thậm chí liên xã, nhất là trong nông nghiệp.

Sự phát triển nhanh chóng về mặt số lượng của HTX trong giai đoạn 1955-1986 được giải thích bởi sự đề cao tuyệt đối của Nhà nước đối với kinh tế tập thể, trong khi đó vai trò của kinh tế hộ, kinh tế tư nhân lại bị phủ định. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa II) tháng 8/1955 đã đề ra chủ trương xây dựng thí điểm một số HTX nông nghiệp. Trong 3 năm thực hiện thí điểm, nước ta xây dựng được 45 HTX và trên 100.000 tổ đổi công. Tháng 4/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 16 (khóa II) đã quyết định chính thức đường lối, phương châm, chính sách hợp tác hóa nông nghiệp và Trung ương đã triệu tập nhiều hội nghị nhằm thúc đẩy phong trào hợp tác hóa. Cuối năm 1960, đại bộ phận nông dân ở miền Bắc đã tham gia HTX bậc thấp. Năm 1961, Nhà nước công bố điều lệ HTX công nghiệp Việt Nam làm căn cứ thống nhất để củng cố tổ chức và cải tiến quản lý HTX. Cho đến Đại hội Đảng VI năm 1986, cùng với việc thực hiện cải tạo nông nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh, HTX ở nước ta đã được hình thành ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành kinh tế và ở tất cả địa phương. Năm 1986, trong tổng số 73.470 HTX có 17.022 HTX nông nghiệp, 474 HTX nghề cá, 32.034 HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, 3.900 HTX xây dựng, 3.300 HTX giao thông vận tải, 9.600 HTX mua bán và 7.160 HTX tín dụng.

Sự phát triển nhanh chóng của HTX đã có nhiều đóng góp cho công cuộc giải phóng dân tộc và sự phát triển đất nước. Khu vực HTX đã huy động được các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân phục vụ công cuộc kháng chiến chống Mỹ; cải thiện một bước đời sống, bộ mặt của nông thôn, kết cấu hạ tầng khu vực. Tuy vậy, sự phát triển của HTX trong giai đoạn 1955-1986 đã bộc lộ một số hạn chế, đặc biệt sau năm 1972, tình hình kinh tế của các HTX nhìn chung còn rất nhiều khó khăn về con người và vật chất.

Ngoài ra, các nguyên tắc cơ bản của HTX như tự nguyện, tự chủ, dân chủ, công bằng, minh bạch cũng không được thực hiện đầy đủ. Thứ nhất, nguyên tắc tự nguyện gia nhập HTX không được coi trọng. Trong gian đoạn này, các hình thức tổ chức kinh tế tự nguyện (tổ hợp tác) đã được thay bằng hình thức tổ chức kinh tế mang tính áp đặt hơn (HTX). Đầu những năm 60 thế kỷ XX, ở miền Bắc tồn tại nhiều tổ đổi công và các hình thức hợp tác khác của nông dân, kinh tế cá thể, tiểu chủ dưới hình thức đơn giản, mà thực chất là các HTX ở trình độ thấp. Tuy nhiên, các hình thức tổ chức kinh tế này đã nhanh chóng được thay thế bằng các HTX được hình thành theo mệnh lệnh hành chính. Thứ hai, tính tự chủ của HTX không được đảm bảo. Dưới tác động của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, Nhà nước kiểm soát toàn bộ các yếu tố sản xuất và giữ quyền quyết định việc sử dụng các yếu tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập. Ngoài ra, các HTX hoạt động theo điều lệ mẫu thống nhất do Chính phủ quy định (Quy tắc tổ chức HTX mua bán và HTX tiêu thụ được ban hành kèm theo Nghị định số 649/TTg ngày 30/12/1955, Điều lệ đăng ký kinh doanh công thương nghiệp được ban hành kèm theo Nghị định số 76/CP ngày 8/4/1974, Điều lệ đăng ký kinh doanh công thương nghiệp đã được ban hành kèm theo Nghị định số 119/CP ngày 9/4/1980). Những can thiệp này đã ảnh hưởng không nhỏ đến nguyên tắc tự chủ của HTX. Thứ ba, hoạt động của HTX thiếu sự công bằng và minh bạch cần thiết. Quan hệ lợi ích giữa Nhà nước - HTX - xã viên không được phân định rạch ròi, đặc biệt lợi ích của xã viên và người lao động trong HTX ít được chú trọng.

Nhìn một cách tổng quát, phát triển HTX ở Việt Nam trong thời kỳ 1955-1986 mang tính áp đặt cao, các nguyên tắc cơ bản của HTX như tự nguyện, tự chủ, công bằng và minh bạch trong tổ chức và quản lý chưa được thực hiện đầy đủ. Điều này đã tạo ra một hệ thống HTX lớn về mặt số lượng và quy mô, nhưng không phản ánh được bản chất của HTX.

7.1.2.2 Tình hình phát triển HTX giai đoạn 1987-1996

(Dẫn theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP [3])

Giai đoạn 1987-1996, kinh tế tập thể cùng kinh tế Nhà nước được coi là hình thức kinh tế chủ đạo của nền kinh tế, tuy nhiên đây cũng là thời kỳ khó khăn nhất trong quá trình phát triển HTX ở nước ta; số lượng HTX bị giảm mạnh, từ 73.490 HTX năm 1987 xuống còn 18.607 HTX năm 1996.

Sự suy giảm về mặt số lượng của HTX trong giai đoạn 1987-1996 một mặt phản ánh những thay đổi về chính sách mặt khác phản ánh sự yếu kém của bộ phận lớn các HTX, cũng như sự phát triển vượt quá yêu cầu về mặt số lượng HTX trong giai đoạn trước 1986. Từ năm 1986, Việt Nam chuyển dần từng bước từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi trọng khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân, coi kinh tế hộ là chủ thể kinh tế tự chủ. Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế đã làm giảm dần vai trò và lợi thế của HTX cũng như làm bộc lộ sự yếu kém của HTX.

Sự yếu kém của hệ thống HTX thể hiện ở các điểm chính sau: Thứ nhất, hệ thống HTX không được thành lập, tổ chức và hoạt theo đúng các nguyên tắc cơ bản của HTX vì vậy không phát huy được động lực gia nhập HTX của xã viên. Thứ hai, mô hình tổ chức HTX mặc dù đã được điều chỉnh nhưng không phù hợp với cơ chế thị trường đã làm cho hệ thống HTX cũ bị tê liệt, tan rã hoặc tự phát chuyển đổi thích nghi với môi trường mới. Thứ ba, hệ thống HTX tỏ ra kém thích nghi với quá trình chuyển đổi cơ chế theo hướng tăng cường sự tự chủ của HTX và giảm dần các ưu đãi về mặt nguồn vốn và tín dụng đối với HTX.

Bài học về sự suy thoái của các HTX trong giai đoạn 1987-2003 phản ánh sự lỗi thời của hệ thống HTX hoạt động không phù hợp với nguyên tắc cơ bản của HTX (nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, dân chủ) được thành lập trong giai đoạn trước 1986 trong điều kiện kinh tế thị trường. Ngoài ra, sự suy thoái của hệ thống HTX trong thời kỳ này cũng phản ánh rằng, để tồn tại và phát triển bền vững, các HTX cần được thành lập trên cơ sở các nhu cầu chung của xã viên hơn là sự áp đặt của các cơ quan chính quyền.

7.1.2.3 Tình hình phát triển HTX giai đoạn 1997-2003

(Dẫn theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP [3])

Giai đoạn 1997-2003, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX được coi là nền tảng của nền kinh tế quốc dân trong nền kinh tế nhiều thành phần. Giai đoạn này cũng là giai đoạn thực hiện chuyển đổi hợp tác xã từ mô hình HTX kiểu cũ (mang nặng tính hành chính, bao cấp) sang mô hình hợp tác xã kiểu mới (mạng nặng tính tự chủ, thị trường) theo Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Giai đoạn này chứng kiến sự chuyển đổi và thu hẹp của HTX. Số lượng HTX đã giảm từ 18.607 năm 1986 xuống còn 14.207 năm 2003.

Sự giảm sút về số lượng HTX trong giai đoạn 1997-2003 phản ánh quá trình chọn lọc của thị trường đối với hệ thống HTX và quá trình thực thi Luật HTX (2003) theo hướng thực hiện đầy đủ hơn các nguyên tắc cơ bản của HTX. Theo Liên minh HTX, trong số 14.207 HTX năm 2003 có khoảng 5.800 HTX thành lập mới (riêng lĩnh vực nông nghiệp khoảng 2.139 HTX, chiếm tỷ lệ 37%); khoảng 8.400 HTX được chuyển đổi từ mô hình cũ sang mô hình mới. Cũng trong giai đoạn này, có đến hơn 10.000 HTX bị giải thể. Trong hai năm 2001-2002 đã có 2.271 HTX bị giải thể.

Tình hình phát triển HTX trong giai đoạn 1997-2003 có một số điểm đáng chú ý sau: Thứ nhất, việc giải thể một số lượng lớn HTX khẳng định nếu HTX không hoạt động đúng các nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, dân chủ, công bằng và minh bạch sẽ gặp khó khăn trong điều kiện kinh tế thị trường. Thứ hai, sự ra đời của các HTX mới phản ánh đây là một hình thức tổ chức kinh tế có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường. Thứ ba, các HTX chuyển đổi và thành lập mới theo Luật chủ yếu tập trung ở các vùng nông thôn có điều kiện kinh tế khó khăn như vùng trung du miền núi phía Bắc có 4.034 HTX (chiếm 28%); vùng đồng bằng sông Hồng 5.063 HTX (chiếm 36%). Ở các vùng phát triển sản xuất hàng hoá cao như Đông Nam Bộ số lượng HTX chỉ có 642 HTX (chiếm 4,5%).

Đặc điểm phát triển của HTX trong giai đoạn 1997-2003 khẳng định các HTX không được thành lập trên cơ sở tinh thần tự nguyện của xã viên, không có khả năng tự chủ (không kịp đổi mới) sẽ gặp nhiều khó khăn trong điều kiện kinh tế thị trường. Ngoài ra sự ra đời của một loạt HTX mới và sự phát triển rộng rãi của HTX ở khu vực nông thôn và khu vực khó khăn trong thời kỳ này phản ánh HTX là hình thức tổ chức kinh tế chuyển đổi cần được ưu tiên phát triển đặc biệt là ở khu vực nông thôn và khu vực mà người dân gặp nhiều khó khăn hay bất lợi.

7.1.2.4 Tình hình phát triển HTX giai đoạn 2004-2012

(Dẫn theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP [3])

Giai đoạn 2004-2012 đánh dấu sự phục hồi của kinh tế HTX cả về chất và lượng. Số lượng HTX đã tăng từ 14.207 năm 2003 lên 18.244 năm 2010. Sự tăng lên về mặt số lượng HTX ở giai đoạn này là kết quả của việc chuyển đổi mô hình ở 8.500 HTX thành lập trước năm 1997, thành lập mới 9.744 HTX và giải thể 5.707 HTX. Sự phục hồi này phần nào phản ánh những tác động tích cực của Luật HTX sửa đổi năm 2003 (chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2004) đến khu vực kinh tế hợp tác và HTX.

Các HTX đã tham gia ngày càng sâu rộng vào nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau. Trong tổng số 18.244 HTX có 8.918 HTX nông nghiệp, 389 HTX thủy sản, 2.497 HTX công nghiệp, 939 HTX xây dựng, 1.070 HTX vận tải, 981 HTX thương mại, dịch vụ, 1.053 quỹ tín dụng nhân dân và 2.020 các loại hình khác (gồm 1.873 HTX dịch vụ điện, 173 HTX vệ sinh môi trường, 136 HTX chợ, 15 HTX y tế, v.v...). Trong tổng số 18.244 HTX khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có 4.974 HTX; khu vực Nam Bộ có 1.726 HTX; khu vực Trung Bộ có 4.267 HTX và khu vực đồng bằng sông Hồng có 6.023 HTX. Các hình thức liên kết giữa các HTX cũng phát triển mạnh trong giai đoạn từ 2004 đến nay. Cả nước có 53 liên hiệp HTX, trong đó có 18 liên hiệp HTX nông nghiệp, 2 liên hiệp HTX thủy sản, 8 liên hiệp HTX GTVT, 4 liên hiệp HTX công nghiệp, 5 liên hiệp HTX xây dựng, 13 liên hiệp HTX thương mại, dịch vụ. Các liên hiệp thu hút sự tham gia của 1.492 HTX, các đơn vị thành viên.

Sự hồi phục và phát triển của HTX trong giai đoạn 2004 đến nay phản ánh xu thế phát triển tất yếu của kinh tế hợp tác trong giai đoạn mới. Ngoài ra, sự phát triển của  các liên hiệp HTX ngành nghề trong thời kỳ này phần nào phản ánh yêu cầu hợp tác ở trình độ cao của kinh tế hội nhập.

7.1.2.5 Giai đoạn 2013 tới nay

(Dẫn theo TS. Nguyễn Thị Thu Hoài, Trường ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội [5])

Sau hơn 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW và 7 năm thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, mặc dù tình hình kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có nhiều bất ổn, nhưng khu vực HTX vẫn phát triển ổn định. Số lượng HTX tăng theo từng năm, phát triển khá đồng đều trên khắp các vùng miền, chất lượng hoạt động được nâng lên. Các HTX từng bước hoạt động đúng bản chất, ngày càng tập trung hơn vào việc hỗ trợ kinh tế hộ thành viên thông qua cung cấp các dịch vụ hoặc việc làm cho thành viên, nhất là HTX nông nghiệp.

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn 2013-2016, có 554 lượt HTX đã được tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, phát triển kinh tế- xã hội với tổng kinh phí là 74.965 triệu đồng, trong đó kinh phí từ ngân sách trung ương là 7.484 triệu đồng, từ ngân sách địa phương là 67.481 triệu đồng. Riêng 2018, cả nước có 596 HTX được tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội.

Hiện nay, cả nước có 22.861 HTX (13.856 HTX nông nghiệp, 1.183 Quỹ Tín dụng nhân dân và 7.822 HTX phi nông nghiệp), thu hút gần 6 triệu thành viên tham gia. Doanh thu bình quân của một HTX năm 2018 đạt 4.477,3 triệu đồng/HTX, tăng 3.622,7 triệu đồng (gấp khoảng 5,2 lần) so với năm 2003. Cùng với doanh thu, lãi bình quân của một HTX tăng từ 74 triệu đồng/HTX/năm 2003 lên 240,5 triệu đồng/HTX/năm 2018. Cùng với đó, cả nước có 74 Liên hiệp HTX, tăng 49 đơn vị so với năm 2003, cả giai đoạn 2003-2018 thành lập mới là 51 Liên hiệp HTX (tập trung nhiều nhất năm 2017) và giải thể 28 liên hiệp.

Các Liên hiệp HTX thành lập chủ yếu ở các vùng: Đồng bằng sông Hồng (16 Liên hiệp HTX), Đông Nam Bộ (11 Liên hiệp HTX) và Đồng bằng sông Cửu Long (10 Liên hiệp HTX)… hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp 39/74 Liên hiệp HTX, tương đương khoảng 52,7%% tổng số Liên hiệp HTX; thu hút 375 HTX thành viên tăng 324 thành viên so với năm 2003, tạo việc làm cho 25,2 nghìn lao động, với tổng số vốn hoạt động là hơn 441 tỷ đồng; doanh thu bình quân 1 liên hiệp là 944 triệu đồng/năm và lãi bình quân 01 Liên hiệp HTX là 148,3 triệu đồng/năm.

Bên cạnh đó, Tổ hợp tác (THT) trong những năm qua cũng có sự tăng trưởng mạnh. Cả nước hiện có 101,4 nghìn THT (58,5 nghìn THT trong lĩnh vực nông nghiệp và 42,9 nghìn THT phi nông nghiệp), tăng 587 THT (khoảng 0,58%) so với năm 2003, thu hút 1,34 triệu thành viên tham gia (bình quân một THT có trên 13 thành viên), tăng khoảng 57,3% so với năm 2003. Số lao động thường xuyên trong THT khoảng 1,1 triệu lao động, tăng 11,2% so với năm 2003. Doanh thu bình quân của 1 THT là 408 triệu đồng, tăng 75,7% so với năm 2003. Lãi bình quân của 1 THT là 61,2 triệu đồng/năm, tăng 127,5% so với năm 2003. Thu nhập bình quân của 1 lao động thường xuyên trong THT là 26 triệu đồng/năm, tăng 21% so với năm 2003…

Cùng với sự gia tăng mạnh về số HTX trên, trong những năm qua Quỹ hỗ trợ phát triển HTX cũng đã trở thành động lực quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế HTX. Có thể khẳng định, việc hình thành Quỹ hỗ trợ phát triển HTX có ý nghĩa rất lớn. Ở Trung ương, Quỹ hỗ trợ phát triển HTX được giao cho Liên minh HTX Việt Nam quản lý. Vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp ban đầu là 100 tỷ đồng để hỗ trợ cho hoạt động của các HTX. Ngày 22/6/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 23/2017/QĐ-TTg, theo đó vốn điều lệ của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX do ngân sách nhà nước cấp từ nguồn chi đầu tư phát triển, năm 2018 tăng lên 500 tỷ đồng. Ở địa phương, đa số các tỉnh, thành phố đã thành lập được Quỹ hỗ trợ phát triển HTX và bước đầu hoạt động có hiệu quả.

Đến cuối năm 2018, tổng nguồn vốn của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX Trung ương là 136,4 tỷ đồng. Trong đó, vốn điều lệ ngân sách nhà nước cấp ban đầu là 100 tỷ đồng, vốn bổ sung trong quá trình hoạt động là 36,4 tỷ đồng. Tổng doanh số cho vay của Quỹ hỗ trợ HTX Trung ương từ khi thành lập (năm 2006) đến nay là 258,7 tỷ đồng cho 110 dự án, trong đó dư nợ vay là 99,3 tỷ đồng, nợ xấu 5,025 tỷ đồng, chiếm 6,06% tổng dư nợ.

Các dự án vay vốn của Quỹ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nông nghiệp, địa bàn nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa (chiếm 70% tổng số dự án) tại 35 tỉnh, thành phố. Đến 2018, cả nước có 50/63 tỉnh đã thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tại địa phương. Các dự án vay vốn của các Quỹ địa phương tập trung chủ yếu vào phát triển sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ kỹ thuật, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Việc ra đời và đi vào hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX đã tạo thêm một kênh hỗ trợ về nguồn vốn đối với các HTX.

Về cơ bản, các HTX sau khi vay vốn của Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX phát triển khá hiệu quả, đã tăng trưởng về quy mô và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cụ thể, doanh thu, lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 50% - 60%; số thành viên tăng bình quân 4%; số lao động tăng bình quân 37%; thu nhập bình quân tăng 35%; số nộp ngân sách tăng bình quân 74%. Có thể thấy, những phát triển trong khu vực kinh tế tập thể với mô hình HTX, THT và các Liên hiệp HTX cả về số lượng, chất lượng đã từng bước vượt qua tình trạng yếu kém kéo dài, có nhiều tín hiệu phát triển trong tương lai.

Một trong những chuyển biến tích cực về kinh tế HTX là nếu như ở giai đoạn trước, thành viên tham gia HTX theo mệnh lệnh hành chính, không góp vốn thì giờ đây người dân tham gia HTX trên tinh thần tự nguyện, cùng góp vốn, cùng chịu trách nhiệm về hoạt động của HTX. Nhiều HTX có phạm vi hoạt động toàn xã, thậm chí toàn huyện. Số lượng các HTX áp dụng khoa học công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất, kinh doanh, tham gia vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ngày càng nhiều, đặc biệt, các HTX nông nghiệp đã hoạt động gắn với các sản phẩm chủ lực của vùng, thực hiện liên kết chuỗi, nhiều HTX liên kết với các siêu thị, doanh nghiệp lớn để mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh.

Một số HTX đã chủ động nghiên cứu, mở rộng thị trường, không những trong nước mà còn xuất khẩu. Một số HTX có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng trên phạm vi nhiều tỉnh, doanh thu cao hàng trăm tỷ đồng đã xuất hiện tại các địa phương như: HTX Dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Anh Đào (Lâm Đồng), HTX Evergrowth (Sóc Trăng), HTX bò sữa Tân Thông Hội (TP. Hồ Chí Minh)...

7.2       Các xu hướng phát triển HTX ở nước ta hiện nay

Theo Báo cáo nghiên cứu RS – 04 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP thì HTX ở nước ta hiện nay đang có các xu hướng phát triển như sau [3].

7.2.1    Xu hướng gắn kinh tế gia đình với kinh tế HTX

Thông thường các thành viên của HTX có hoạt động kinh tế giống nhau và ở trên cùng một địa bàn, có nhu cầu chung về kinh tế, văn hoá, xã hội. HTX có thể đáp ứng các nhu cầu chung này cho xã viên hiệu quả cao hơn so với từng thành viên tự đáp ứng. Vì vậy, xu hướng gắn kết kinh tế gia đình và kinh tế HTX được thể hiện khá rõ ràng. Xu hướng gắn kết kinh tế gia đình và kinh tế HTX được thể hiện thông qua các cơ chế khác nhau. Thứ nhất, HTX góp phần nâng cao năng lực sinh kế cho xã viên. Thứ hai, HTX giúp xã viên cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh. Thứ ba, HTX giúp xã viên mở rộng phát triển kinh tế hộ.

Kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển cho thấy, nâng cao năng lực sinh kế của xã viên là một trong những hướng phát triển đang diễn ra ở các HTX ở nước ta hiện nay. Xu hướng nâng cao năng lực sinh kế được thể hiện ở tỷ lệ xã viên hài lòng với các tiêu chí: (i) tăng thu nhập nhờ có công ăn việc làm ổn định ở HTX; (ii) nâng cao hiệu quả sản xuất của hoạt động kinh tế hộ gia đình/cá thể do được HTX hướng dẫn về kỹ thuật sản xuất; (iii) phát triển kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp cho xã viên; (iv) nâng cao được hiệu quả sản xuất của hoạt động kinh tế hộ gia đình, kinh tế cá thể do được HTX hướng dẫn về kỹ năng quản lý và kinh doanh; (v) mở rộng sản xuất kinh doanh do HTX có khả năng tiếp cận thị trường rộng hơn.

Kết quả điều tra nói trên cũng cho thấy, tiết kiệm chi tiêu, chi phí cho xã viên cũng đang là một hướng phát triển ở các HTX ở nước ta hiện nay. Hướng giúp xã viên cắt giảm chi tiêu/chi phí được thể hiện ở tỷ lệ xã viên hài lòng với các tiêu chí: (i) tiết iệm được chi tiêu gia đình do sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX; (ii) tiết kiệm được chi phí sản xuất, kinh doanh thông qua việc mua vật tư, dịch vụ từ HTX; (iii) tiết kiệm được chi phí bán hàng nhờ bán hàng thông qua HTX; (iv) tiết kiệm được chi phí sản xuất kinh doanh nhờ sử dụng các tài sản chung của HTX; (v) tiết kiệm được vốn đầu tư nhờ sử dụng các tài sản chung của HTX. Kết quả ở Bảng 20 cho thấy, mở rộng cơ hội kinh tế cho xã viên cũng đang là một hiện tượng, tuy nhiên không thật phổ biến ở các HTX ở nước ta hiện nay. Hướng mở rộng cơ hội kinh tế cho xã viên được thể hiện ở tỷ lệ xã viên hài lòng với với các tiêu chí: (i) đóng góp và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi của gia đình; (ii) đóng góp và sử dụng hiệu quả các tài sản nhàn rỗi của gia đình; (iii) tiếp cận các nguồn vốn tín dụng dễ dàng hơn thông qua HTX; (iv) nâng cao thu nhập nhờ bán hàng qua HTX với giá cao hơn; và (v) tiếp cận các nguồn vốn tín dụng với chi phí thấp hơn thông qua HTX.

Phát triển HTX theo hướng gắn liền với kinh tế hộ đang là xu hướng phát triển quan trọng ở các HTX ở nước ta hiện nay. Xu hướng gắn kết kinh tế gia đình và kinh tế HTX được thể hiện thông qua ba cơ chế cơ bản. Thứ nhất, HTX góp phần nâng cao năng lực sinh kế cho xã viên. Thứ hai, HTX giúp xã viên cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh. Thứ ba, HTX giúp xã viên mở rộng phát triển kinh tế hộ.

7.2.2    Xu hướng phát triển HTX gắn liền với phát triển cộng đồng

HTX thường gắn với một cộng đồng dân cư, tạo sự ổn định trong các cộng đồng và gắn kết các thành viên cộng đồng với nhau. Thông qua HTX, thành viên của cộng đồng có thể cùng nhau giải quyết các vấn đề có liên quan đến cuộc sống của họ như thăm hỏi, giúp đỡ nhau trong lúc hiếu, hỷ, ốm đau. HTX theo sự lớn mạnh của mình có thể tổ chức các hoạt động xã hội, văn hoá và hoạt động chăm lo cộng đồng làm cộng đồng dân cư trở nên đoàn kết và thân thiết với nhau hơn. Từ đó, HTX góp phần giải quyết ngay tại gốc các mâu thuẫn trong nội bộ dân cư, góp phần củng cố an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. 

Nhiều HTX đứng ra đầu tư cơ sở hạ tầng trong cộng đồng hoặc là nơi tiếp nhận/triển khai các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng của Nhà nước. HTX cải thiện tình trạng xuống cấp và không ngừng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn như điện, đường, trường, trạm, nhà trẻ và nhiều công trình phúc lợi xã hội khác. Hơn nữa, HTX cũng đã giúp cộng đồng quản lý và khai thác hiệu quả các công trình được xây dựng trên cơ sở nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, kết hợp với sự đóng góp của HTX và xã viên HTX. HTX tổ chức hoặc tài trợ cho các sự kiện văn hóa cộng đồng. Các hoạt động văn hoá có thể được phát triển trong cộng đồng xã viên HTX nói riêng và cộng đồng dân cư tại địa phương nói chung. Ngoài ra, HTX cũng là một trong những tác nhân quan trọng góp phần giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa cộng đồng thông qua việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống.

Các cá nhân, hộ gia đình thông qua HTX được tập hợp trong một tổ chức, giúp đỡ lẫn nhau toàn diện về kinh tế và đời sống, có thể tự giải quyết các vấn đề nội bộ cộng đồng theo tinh thần tương thân, tương ái, từ đó góp phần giải quyết ngay từ gốc các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, góp phần ổn định xã hội. HTX góp phần nâng cao tình làng, nghĩa xóm và tinh thần tương trợ nhau những lúc khó khăn. Các HTX đặc thù như HTX của người mù, HTX của thương binh, HTX của cựu chiến binh, HTX của phụ nữ đơn thân, v.v... đã tạo điều kiện cho những xã viên có hoàn cảnh đặc biệt, nương tựa vào nhau cùng tham gia sản xuất, tự nuôi sống bản thân, giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Thực tế, không quá khó khăn để nhìn thấy những giá trị nhân văn này của HTX. Với tên gọi như tổ đoàn kết trên biển, tổ hợp tác, bà con ở Quảng Bình, Khánh Hòa, Cà Mau, v.v… không chỉ tập hợp lại để giúp nhau làm kinh tế, cùng khai thác, đánh bắt hải sản mà còn hỗ trợ và bảo vệ nhau những khi gặp hoạn nạn ngoài khơi xa. Một nghiên cứu khác mới được Liên hiệp HTX Việt Nam tiến hành cũng cho thấy HTX có vai trò rất quan trọng trong việc giúp đỡ các xã viên và hộ gia đình xã viên trong điều kiện kinh tế khó khăn. 88,3% HTX hỗ trợ về kinh tế khi xã viên, hộ gia đình xã viên có việc hiếu hỷ, ốm đau, cơ nhỡ; 61,5% HTX đầu tư xây dựng đường thôn, xã; 44,4% HTX đầu tư xây dựng đường giao thông nội đồng; 81,4% HTX đầu tư xây dựng hệ thống tưới tiêu nội đồng, v.v…).

Ở nhiều nước, HTX trở thành một khu vực kinh tế phát triển, đóng vai trò tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi của xã viên. HTX là tổ chức thu hút đông đảo người dân hỗ trợ lẫn nhau về kinh tế và bảo vệ các quyền lợi chính đáng của họ. Các HTX tiêu dùng, nhà ở, thầy thuốc giúp xã viên giải quyết những nhu cầu trong cuộc sống của mình. Thông qua HTX, Chính phủ có thể giải quyết các mục tiêu xã hội cho cộng đồng. Thực chất ở những nước này, HTX đã phần nào trợ giúp Chính phủ giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết yếu của xã hội. Xu hướng phát triển HTX gắn liền với phát triển cộng đồng đang được hình thành khá rõ nét ở nước ta. HTX góp phần phát triển cộng đồng thông qua việc liên kết các cá nhân trong cộng đồng xung quanh HTX, phát triển cơ sở hạ tầng cộng đồng, tổ chức các hoạt động văn hóa và giữ gìn các giá trị văn hóa cộng đồng, hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất và khi khó khăn.

7.2.3    Xu hướng doanh nghiệp hóa HTX

Xu hướng doanh nghiệp hóa HTX đang bắt đầu nổi lên như một xu hướng ở các HTX ở nước ta hiện nay. Các HTX này (phần lớn là những HTX mới được hình thành) đang hoạt động như những doanh nghiệp và thường được quản lý bởi một số ít người có số vốn góp chiếm ưu thế trong HTX, xã viên trong HTX thực chất chỉ là những người lao động làm thuê, quyền biểu quyết của họ chỉ mang tính hình thức. Đây là thực tế của phần lớn các HTX được đánh giá là HTX giàu, mạnh hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều người lại hiểu HTX là một loại hình doanh nghiệp, nhưng lại được hưởng nhiều ưu đãi hơn so với doanh nghiệp. Cách hiểu này dẫn đến tình trạng phổ biến hiện nay là có nhiều tổ chức chỉ mượn danh là HTX, nhưng lại hoạt động như một doanh nghiệp. Việc doanh nghiệp hóa các HTX có thể dẫn đến các nguyên tắc cơ bản của HTX đặc biệt là nguyên tắc dân chủ và minh bạch không được thực hiện đầy đủ ở

HTX cũng như sẽ gây khó khăn cho Nhà nước trong quá trình thực hiện các chính sách đối với HTX. Hiện tượng doanh nghiệp hóa HTX có thể xảy ra khi tất cả hoặc phần lớn xã viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX (đối với mô hình HTX dịch vụ phục vụ xã viên) hoặc phần lớn xã viên chỉ còn vốn góp nhưng không còn là lao động trực tiếp trong HTX (đối với mô hình HTX của người lao động).

Tóm lại, xu hướng doanh nghiệp hóa HTX đang dần phổ biến ở nước ta. Xu hướng này xuất phát từ hai nguyên nhân. Thứ nhất, một số cá nhân góp vốn nhiều cho HTX và dần dần định hướng phát triển theo mục đích lợi nhuận. Thứ hai, các xã viên HTX giảm dần việc sử dụng sản phẩm/dịch vụ của HTX hoặc giảm dần việc góp sức vào HTX. Các xu hướng này sẽ làm cho các HTX tồn tại không giống với bản chất của chúng.

7.3       Các tồn tại, hạn chế trong sự phát triển HTX ở Việt Nam

7.3.1    Các tồn tại, hạn chế

Theo TS. Nguyễn Thị Thu Hoài thì sự phát triển HTX ở Việt Nam có các hạn chế như sau [5].

Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, công tác nghiên cứu lý luận, thực tiễn, giáo dục, đào tạo, tuyên truyền về kinh tế tập thể còn yếu; một số cấp ủy đảng chưa nhận thức đúng, đầy đủ tinh thần của Nghị quyết số 13-NQ/TW, chưa thấy rõ vị trí, vai trò của HTX trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; công tác chỉ đạo, thực hiện mới dừng ở chủ trương, chưa xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện, chưa có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho các HTX.

Công tác thực thi pháp luật về HTX chưa thực sự đi vào cuộc sống; một số chính sách chưa được thực hiện (như hỗ trợ về kết cấu hạ tầng) hoặc thực hiện chưa hiệu quả (như chính sách ưu đãi tín dụng, hỗ trợ chế biến sản phẩm); nguồn lực hạn chế và cơ chế phân bổ hỗ trợ kinh tế tập thể chưa hợp lý, nhất là ở các địa phương chưa tự cân đối được thu chi ngân sách.

Công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, HTX chưa thực sự hiệu quả, có nơi còn buông lỏng; chưa thực hiện tốt công tác báo cáo thống kê, dẫn tới số liệu báo cáo liên quan đến Kinh tế tập thể, HTX không đầy đủ, không cập nhật và chưa chính xác. Mô hình HTX kiểu mới quy mô lớn chậm được hình thành và phát triển, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ theo chuỗi giá trị còn yếu; việc phổ biến, nhân rộng mô hình HTX hoạt động có hiệu quả chưa được triển khai rộng rãi, người dân chưa được tuyên truyền để hiểu rõ và tin tưởng vào các lợi ích về kinh tế - xã hội do HTX mang lại.

7.3.2    Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế

Cũng theo TS. Nguyễn Thị Thu Hoài thì nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại đã nêu trên như sau [5].

Nguyên nhân chính của những hạn chế nêu trên là do các cấp, các ngành còn chưa quan tâm đúng mức trong việc chỉ đạo, định hướng, xây dựng cơ chế chính sách, tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho kinh tế tập thể, HTX phát triển. Nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, đảng viên và người dân vẫn chưa đúng, chưa đầy đủ, chưa thống nhất về tinh thần của Nghị quyết, về bản chất tổ chức kinh tế tập thể; chưa thấy hết được vai trò, vị trí quan trọng của khu vực kinh tế tập thể trong nền kinh tế, nhất là đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

Công tác xây dựng cơ chế, chính sách chưa kịp thời, chậm tháo gỡ các vướng; môi trường pháp lý chưa thuận lợi cho các chủ thể kinh tế tham gia HTX; cơ chế huy động và phân bổ nguồn lực cho khu vực kinh tế tập thể, HTX và kinh tế hộ còn nhiều bất cập; chính sách ưu đãi, hỗ trợ kinh tế tập thể, HTX được ban hành nhiều nhưng nguồn lực thiếu nên khó đi vào thực tiễn.

Mặt khác, bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, HTX chưa được quan tâm, kiện toàn theo yêu cầu, thiếu cán bộ chuyên trách về kinh tế tập thể; cán bộ đa phần là kiêm nhiệm, chưa nắm chắc chuyên môn, thiếu thực tế; công tác tham mưu trong quản lý nhà nước về HTX còn hạn chế. Thực tế, vẫn còn tồn tại tâm lý ngại đổi mới, chưa mạnh dạn chuyển sang mô hình HTX kiểu mới, trong khi đó HTX kiểu mới chưa thực sự trở thành mô hình phổ biến đủ sức cuốn hút, huy động được sự tham gia của thành viên vào các hoạt động, chưa thể hiện được tinh thần hợp tác của tổ chức.

Thực tiễn hiện nay cho thấy năng lực nội tại của nhiều HTX còn yếu, thiếu nguồn lực đầu tư cho cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực; sự gắn kết lợi ích giữa HTX và thành viên mờ nhạt; lợi ích kinh tế trực tiếp do HTX mang lại cho thành viên chưa nhiều. Việc liên kết, liên doanh giữa HTX với HTX, giữa HTX với các thành phần kinh tế khác còn ít, hiệu quả chưa cao. Tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế gặp nhiều khó khăn, thách thức; nguồn lực và cơ chế hỗ trợ kinh tế tập thể còn bất cập, việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng còn gặp khó khăn, Quỹ hỗ trợ phát triển HTX còn hạn hẹp.

8          Giải pháp phát triển HTX việt nam

Theo TS. Nguyễn Thị Thu Hoài thì để thúc đẩy phát triển HTX của nước ta trong bối cảnh mới hiện nay thì cần phải thực hiện các giải pháp sau [5].

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về về bản chất, vai trò của tổ chức kinh tế tập thể, HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung các giải pháp giáo dục, đào tạo, tuyên truyền, tập huấn sâu rộng về Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về "tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" và các văn bản pháp luật về HTX nhằm thống nhất nhận thức cho toàn bộ hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên.

Thứ hai, tiếp tục rà soát, cập nhật, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện khung pháp luật và chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể phù hợp, gắn với thực tiễn nhằm khuyến khích, thúc đẩy khu vực kinh tế tập thể, HTX phát triển mạnh mẽ và rộng khắp; nghiên cứu, xây dựng cơ chế ngân sách trung ương hỗ trợ địa phương để phát triển kinh tế tập thể, HTX; xây dựng, quản lý và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin quốc gia về kinh tế tập thể, HTX trên toàn quốc.

Thứ ba, hoàn thiện và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể theo hướng tập trung và thống nhất từ Trung ương đến địa phương; xác định rõ chức năng và nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn và cơ chế phối hợp của các bộ, ngành trung ương và địa phương. Quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về HTX. Phát huy hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển kinh tế tập thể các cấp. Coi trọng công tác kiểm tra và sơ kết để tập trung tháo gỡ khó khăn cho khu vực kinh tế tập thể, HTX.

Thứ tư, đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của THT, HTX, Liên hiệp HTX, thực hiện tốt chính sách đào tạo và thu hút cán bộ về công tác tại các HTX; tổ chức, củng cố lại hoạt động của các HTX; giải quyết dứt điểm tình trạng HTX ngừng hoạt động tồn tại dưới dạng hình thức; xử lý nợ tồn đọng để lành mạnh hóa khu vực hợp tác xã;tăng cường năng lực tổ chức, điều hành, hoạt động, kinh doanh cho các HTX, xúc tiến thương mại, đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, chế biến sản phẩm;tăng cường liên doanh, liên kết giữa các HTX và giữa HTX với doanh nghiệp.

Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, hội, hiệp hội, trong đó, xác định rõ vai trò và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, đặc biệt là người đứng đầu trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế tập thể. Đưa phát triển kinh tế tập thể là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các bộ, ngành, địa phương. Tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc vận động, giáo dục quần chúng, hội viên, thành viên tự nguyện tham gia phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã và thực hiện các quy định pháp luật về kinh tế tập thể; Mặt trận tổ quốc Việt Nam cần xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động, phối hợp với các tổ chức thành viên trong việc phát triển kinh tế tập thể.

Thứ sáu, tăng cường vai trò, hiệu quả hoạt động của Liên minh HTX Việt Nam từ trung ương đến các tỉnh, thành phố, phù hợp quy định pháp luật có liên quan. Đồng thời, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức liên minh HTX, tránh chồng chéo chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Chú trọng hình thành mạng lưới tổ chức tư vấn, hỗ trợ các HTX thành lập mới, xây dựng và quản trị sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế về phát triển kinh tế tập thể, nhất là trong việc tiếp thu kinh nghiệm của các nước, vùng lãnh thổ có phong trào HTX mạnh; Tiếp thu các hỗ trợ kỹ thuật phát triển trong việc thành lập và nâng cao năng lực HTX từ các tổ chức quốc tế.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Luật HTX 2003 (Luật số 18/2003/QH11) do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 26/11/2003

[2] Luật HTX 2012 (Luật số 23/2012/QH13) do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 20/11/2012

[3] Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam, 2012. Sự phát triển của hợp tác xã và vai trò của hợp tác xã đối với an sinh xã hội, Báo cáo nghiên cứu RS - 04, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội, 2012.

[4] Thông tư số 01/2006/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành ngày 19/01/2006 hướng dẫn tiêu chí đánh giá và phân loại HTX

[5] Nguyễn Thị Thu Hoài, 2020. Phát triển kinh tế hợp tác xã Việt Nam trong bối cảnh mới, Tạp chí Tài chính, http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/phat-trien-kinh-te-hop-tac-xa-viet-nam-trong-boi-canh-moi-318057.html

 


BÀI VIẾT LIÊN QUAN